![]() |
Cách mạng Tháng Tám thành công là "cuộc tái sinh mầu
nhiệm" đã mở ra bước ngoặt lớn cho quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc
của nhân dân ta. Đồng thời nó cũng là động lực để tạo nên một cuộc cách mạng
trong văn học. Đó là sự thay đổi của một cách nhìn, một cách cảm, một quan niệm
sống trong sáng tạo nghệ thuật. Trong giai đoạn 1945 – 1975, vận mệnh của Tổ
quốc đứng trước những tử thách gay gắt, cả dân tộc muôn người như một sát cánh
trong cuộc chiến đấu vì lí tưởng chung là độc lập tự do, thống nhất đất nước.
Chính vì lẽ đó, những người cầm bút – những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa đã ý
thức sâu sắc được trách nhiệm trong các sáng tác của mình là phải phụng sự cho
đất nước, các tác phẩm cần tập trung đề cập đến các vấn đề thời sự liên quan
đến vận mệnh dân tộc, tạo dựng và ca ngợi những con người của thời đại đã sống,
cống hiến và hy sinh cho Tổ quốc. Chính vì vậy mà văn học giai đoạn 1945-1975
mang đậm khuynh hướng sử thi. Và để thấy một cách sâu sắc, toàn diện, rõ nét cảm
hứng sử thi bao trùm và chi phối đến văn học thời kì này như thế nào ta có thể
theo sát chặng đường thơ Tố Hữu – lá cờ đầu của thơ ca cách mạng.
Trước hết ta cần hiểu thế nào là cảm hứng sử thi. Cảm hứng được hiểu là
cảm hứng nghệ thuật, là nội dung nội dung tình cảm chủ đạo, thể hiện những
trạng thái tâm hồn, cảm xúc được thể hiện đậm đà trong tác phẩm và Sử thi là một thể loại văn học dân gian còn
được gọi là anh hùng ca, trường ca, với một số đặc trưng cơ bản là: đề cập đến
những vấn đề lớn lao của cộng đồng, xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng là
kết tinh sức mạnh vật chất và tinh thần của cộng đồng trong cảm hứng ngợi ca...
Vậy khái niệm Cảm hứng sử thi được hiểu là những tình cảm, cảm xúc
tự hào, ngợi ca của tác giả về những vấn đề lớn lao quyết định vận mệnh chung
của cộng đồng.
Khuynh hướng
sử thi được biểu hiện ở các phương diện sau:
Thứ nhất Cảm hứng sử thi trong việc lựa chọn đề tài, chủ đề và tư
tưởng tác phẩm. Giai
đoạn 1945 -1975 là 30 năm chiến tranh ái quốc vĩ đại, đầy gian khổ, mất mát và đau
thương. Văn học trong giai đoạn lịch sử ấy không thể là tiếng nói của những số
phận cá nhân mà phải là tiếng nói của cả cộng đồng dân tộc và nhân dân. Những
chủ đề bao trùm trong nền văn học giai đoạn này là những vấn đề về vận mệnh của
cộng đồng, hiện thực mà văn học phản ánh là hiện thực lịch sử dân tộc. Nhà văn,
nhà thơ là những người phát ngôn cho tư tưởng, lập trường, tình cảm, quan niệm
của cộng đồng, nhân danh cộng đồng mà ca ngợi, lên án, kêu gọi và cổ vũ.
Tố Hữu trước khi giác ngộ cách
mạng cũng mang tâm trạng chán nản như bao nhà thơ của phong trào Thơ Mới, ông
cũng băn khoăn lựa chọn con đường đi cho đời mình, thơ mình:
Bâng khuâng đứng
truớc đôi dòng nước
Chọn một dòng hay
để nước trôi?
(Dậy
lên thanh niên)
Và con đường đúng đắn mà Tố Hữu
đã chọn là đi theo và quyết tâm dâng hiến đời mình cho lí tưởng Cách mạng. Sự
gặp gỡ định mệnh này không chỉ quyết định đường đời một con người mà còn quyết
định con đường và toàn bộ sự nghiệp sáng tác của một nhà thơ, tạo nên một hồn
thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam.
Để rồi “ Khi ta đã say mùi
hương chân lí”, khi đã hiểu “ Đời đắng cay không một chút ngọt bùi. Đời đau
buồn không một tiếng cười vui. Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng” thì Tố Hữu hay
cũng chính là lớp trẻ đang hừng hực sức sống quyết tâm một lòng đi theo Cách
mạng, đấu tranh bảo vệ đất nước, bất chấp những khó khăn gian khổ đang đón
đường tiến bước, tin tưởng phơi phới ở tương lai:
Ta bước tới chỉ
một đường cách mạng
Vững lòng tin sẽ
nắm chắc thành công
Như những con tàu
giữa biển mênh mông
Còn xa đất vẫn tin
ngày cập bến.
(Như
những con tàu)
Chẳng phải vô cớ mà thơ Tố Hữu
được coi là biên niên sử bằng thơ. Nói như vậy bởi với khuynh hướng sử thi,
chính trị chủ đạo, bao trùm, thơ Tố Hữu theo sát những diễn biến lịch sử đâu
tranh chống thực dân, đế quốc của dân tộc, hay có thể nói từng sự kiện hào hùng
của dân tộc đều “đổ bóng”, “in đậm” lên những trang thơ của ông.
Trong những ngày sôi sục của
cách mạng tháng Tám và trong niềm vui tưng bừng của độc lập tự do, hồn thơ Tố
Hữu như được chắp cánh bay bổng trong cảm hứng lãng mạn say sưa với niềm vui
lớn của cả dân tộc, trong cuộc hồi sinh của đất nước.
Ngực lép bốn nghìn
năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên.
Tim bỗng hóa mặt trời
......
Gió gió ơi! Hãy
làm giông tố
Cuốn tung lên cờ
đỏ máu thơm tươi
Vàng vàng bay, đẹp
quá sao sao ơi!
Ta ngã vật trong
dòng người cuộn thác
Ôi thiên đường!
Tai miên man nắng nhạt
Từ muôn phương theo
gót nện rầm rầm
Việt Nam ! Việt Nam ! Việt Nam muôn năm!
(Huế
tháng Tám)
Niềm vui lớn của dân tộc còn
được thể hiện trong bài Vui bất tuyệt:
Ta hát suốt đêm
nay vui bất tuyệt
Trống rung tim ta
đập nhịp bồn chồn
Đầu ta qua lớp lớp khải hoàn môn
Hồn ta chạy sáng ngời trên ngọn đuốc
Lòng ta múa lồng lên theo đám rước
Ta xông lên trời với pháo thăng thiên
Bay bay lên, hỡi đôi cánh thần tiên
Đôi cánh mở của đất trời giải phóng !
Một năm
sau khi chính quyền về tay nhân dân tại Huế ngày 23 tháng Tám năm 1945, hòa vào
dòng người trong đêm hội của lễ kỷ niệm một năm ngày độc lập ở Hà Nội, nhà thơ
vẫn sống với cảm hứng say sưa, sôi trào như muốn bay lên.
Lòng yêu
nước cũng thể hiện ở lòng tự hào dân tộc, gắn liền với ý thức làm chủ đất nước
của quần chúng nhân dân. Đặc biệt, khi dân tộc ta làm lên chiến thắng Điện Biên
Phủ « chấn động địa cầu », giành lại hòa bình và giải phóng một
nửa đất nước thì niềm vui và niềm tự hào dân tộc rất cao, thành khúc ca hào
sảng, say sưa :
Của ta,
trời đất, đêm ngày
Núi kia,
đồi nọ, sông này của ta
(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên)
Niềm vui
chung của đất nước khi hòa bình lập lại :
Ngẩng đầu lên : trong sáng tuyệt trần
Tháng Tám trời thu xanh thẳm
Mây nhởn nhơ bay
Hôm nay ngày đẹp lắm
Mây của ta, trời thắm của ta
(Ta đi tới)
Đây là
những bản hùng ca của cuộc kháng chiến, ghi lại nhiều hình ảnh, sự kiện và bước
trưởng thành của cuộc kháng chiến, những âm vang của lịch sử, của thời đại.
Không chỉ nói đến niềm vui, niềm tự hào của toàn dân trong chiến thắng mà Tố
Hữu còn nói cả đến những nỗi buồn, những mất mát lớn lao của cả dân tộc. Nồi
đao mất Bác :
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa
... Bác đã đi rồi sao Bác ơi
Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời
Miền Nam đang thắng mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm thấy Bác cười
Bác Hồ là
một đề tài và nguồn cảm hứng lớn trong nhiều chặng đường sáng tác của Tố Hữu.
Trong niềm đau thương lớn, nhà thơ đã cảm nhận chính xác và thấu hiểu sâu sắc
phẩm chất và đạo đức cao cả, tuyệt vời và trong sáng của Bác Hồ :
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời
nô lệ
Sữa để em thơ, lụa
tặng già
Theo chân Bác là bản trường ca
tái hiện cuộc đời hoạt động cách mạng của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong một thời kỳ
lịch sử hơn nửa thế kỷ đầy biến động, đau thương nhưng cũng rất đỗi hào hùng
với những bước ngoặt trong đại của dân tộc và thời đại. Bác Hồ đã trở thành dân
tộc và dân tộc tìm thấy mình trong hình ảnh của Bác. Bởi thế, viết về Bác Hồ
cũng chính là xây dựng hình tượng con người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu nhất, kết
tinh phẩm chất dân tộc qua nhiều thời đại.
Biểu
hiện thứ hai của tính sử thi chính trong việc xây dựng hình tượng. Các nhân vật, hình tượng trong các tác phẩm mang cả
hứng sử thi, dù là những con người bình dị, thuộc nhiều tầng lớp, lứa tuổi,
thành phần dân tộc... đều mang trong mình những phẩm chất anh hùng, thể hiện
tầm vóc lớn lao, kết tụ sức mạnh, ý chí chung của cả cộng đồng. Cảm hứng chủ
đạo khi xây dựng những hình tượng, nhân vật này là cảm hứng khẳng định, ngợi
ca, tự hào... thường kết hợp với thủ pháp cường điệu hóa.Các nhân vật thường
được đặt trong bối cảnh không gian rộng lớn, kì vĩ để tôn nổi tấm vóc của nhân
vật...
Đó là hình ảnh của quần chúng
nhân dân trong kháng chiến. những con người chân thực mà bình dị của đời , dưới
cái nhìn sử thi họ mang vóc dáng lớn lao kỳ vĩ của lịch sử. Lịch sử của những
chiến công, lịch sử của những anh hùng. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, nhân
dân Việt Nam anh dũng xông
lên đáp lời kêu gọi của Bác Hồ, ở đâu chúng ta cũng gặp bao nhiêu hình ảnh đẹp
của con người Việt Nam
chiến đấu:
Chân toạc máu,
chân dồn đuổi giặc
Hình ảnh con người Việt Nam kiên cường
bất khuất bình dị mà cũng đẹp rạng ngời. Đó là những anh giải phóng quân, Thạch
Sanh của thế kỷ hai mươi:
Hoan hô anh giải
phóng quân
Kính chào anh con
người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh
chàng trai chân đất
Sống hiên ngang,
bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của
thế kỷ hai mươi
Một cây ná, một
cây chông cũng tấn công giặc Mỹ
Cái tôi trữ tình của nhà thơ
đã hóa thân vào các nhân vật quần chúng hoặc có hiện diện thì cũng chỉ là một
đường viền để làm nổi bật những con người quần chúng, trực tiếp bày tỏ niềm yêu
mến và niềm cảm phục với họ trong sự gần gũi, thân thiết của tình đồng bào đồng
chí.
Đó là hình ảnh anh vệ quốc
quân:
Giọt giọt mồ hôi
rơi trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân
ơi sao mà yêu anh thế
Đó là những chiến sỹ Điện
Biên:
Chiến sỹ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày
đêm
Khoét núi ngủ hầm
Mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Trí không mòn
Những đồng chí
thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu
mai
Băng mình qua núi
thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí
chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt
còn ôm.
Và những chị những anh ngày
đêm ra tiền tuyến:
Mấy tầng mây gió
lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị
gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò
chị hát
Dù bom đạn thương
tan thịt nát
Không sờn lòng,
không tiếc tuổi xanh
Đó là hình ảnh của chị Út
Tịch- người mẹ anh hùng:
Là mẹ của sáu đứa con nhỏ
Tóc bới cao bỏm bẻm nhai trầu
Là chị Út quân thù khiếp sợ
Bụng có mang vẫn cướp bốt phá cầu.
Đó là anh
Trỗi- người công nhân ưu tú, với lòng yêu nước căm thù giặc cao độ, anh đã hiến
đời mình cho cách mạng, hy sinh hạnh phúc riêng để phục vụ lợi ích chung. Anh
xứng đáng được ngợi ca bằng những vần thơ đẹp nhất :
Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có con người như chân lý sinh ra.
Cuộc đời
anh là một tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho tất cả chúng ta
học tập.
Đó còn là
chị Lý, người con gái Việt Nam anh hùng, chị bị bọn giặc tra tấn rất dã man:
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung.
Nhưng
chúng « không giết được em người con gái anh hùng ».
Ôi trái tim em trái tim vĩ đại
Còn một giọt máu tươi còn đập mãi
Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời
Cho quê hương em, cho Tổ quốc, loài người
Ta còn
thấy hình ảnh của anh Phạm Hồng Thái :
Sống, chết được như anh
Thù giặc thương nước mình
Sống làm quả bom nổ
Chết như dòng nước xanh
Đó là
hình ảnh mẹ Suốt- người mẹ Quảng Bình bất chấp nguy hiểm chèo thuyền đưa bộ đội
qua sông giữa làn mưa bom bão đạn của kẻ thù :
Mẹ Suốt ơi !
Giữa bom rơi, đạn nổ
Giữa sóng lớn, gió to
Ngực huân chương, mẹ vẫn chèo đò
Không chịu nghỉ. Ai ngăn, cứ nói :
Tui già rồi, có chết khỏi lo
Bọn trẻ sống còn tay bắn giỏi
Và mẹ ngã
Bên bờ sông khói lửa
Đó là
hình ảnh mẹ Tơm- người mẹ đã nuôi giấu, che chở cán bộ :
Buồng mẹ- buồng tim giấu chúng con
Bóng mẹ ngồi trông vọng nước non
Đó là bà
má Hậu Giang kiên cường anh dũng
Tao già không sức cầm dao
Giết bay có các
con tao trăm vùng
Con tao gan dạ anh
hùng
Như rừng đước
mạnh, như rừng chàm thơm
Thân tao chết dạ
chẳng sờn
(Bà má Hậu Giang)
Đất nước Việt Nam với truyền
thống đánh giặc anh dũng. Ở Việt Nam có bao nhiêu bông hoa đẹp là
bấy nhiêu anh hùng:
Ôi Việt Nam xứ
sở lạ lùng
Đến em thơ cũng
hóa những anh hùng
Ta không thể nào quên hình ảnh
chú bé Lượm – chú bé liên lạc hồn nhiên, anh dũng ngã xuống trên cánh đồng quê
dưới làn đạn giặc mà linh hồn và hình ảnh của em vẫn còn mãi với quê hương đất
nước:
Cháu nằm trên lúa
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng.
Đó chính là sức sống Việt Nam
không bao giờ nguôi cạn vẻ đẹp vô biên ấy của những con người Việt Nam- những
anh hùng áo vải, của đất nước Việt Nam đã được kết tinh từ thuở đánh giặc anh
hùng của cha ông. Từ đau thương gian khổ chúng ta vẫn vững bước đi lên và
trưởng thành mãi mãi. Những con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ là những con người đứng lên trên tầm cao của tâm hồn thời đại. Ở họ có
một sức sống mãnh liệt đến lạ lùng:
Việt Nam !
Người là ai mà ta
chưa bao giờ hiểu hết
Người là ai mà sức
mạnh thần kỳ
Với cái chết chưa
phút nào chịu hết
Lửa quanh mình một
tấc cũng không đi
Và:
Ôi Việt Nam từ
trong biển máu
Người vươn lên như
một thiên thần
Thứ
ba: Nghệ thuật trong khuynh hướng sử thi
Về ngôn ngữ, Ngôn ngữ thường có tính chất trang
trọng, giàu hình ảnh, có tính biểu tượng cao và giàu giá trị gợi cảm. Giọng
điệu tác phẩm thường mang âm hưởng hùng tráng, lay động và khích lệ mạnh mẽ
tình cảm người đọc...
Các
thủ pháp nghệ thuật thường được tác giả sử dụng là thủ pháp cường điệu, so sánh
nhằm khắc họa nổi bật hình ảnh những nhân vật tượng trưng cho phẩm chất cao đẹp
và ý chí, khát vọng của cả cộng đồng.
Để phù hợp với nội dung sử thi, Tố Hữu đã lựa chọn
những phương thức nghệ thuật phù hợp. trước tiên, tác giả thường hướng đến thời
gian và không gian mang tính lịch sử. Thời gian trong thơ Tố Hữu thường lấy các
sự kiện lịch sử của dân tộc làm cột mốc. Tố Hữu đặc biệt coi trọng sự phát hiện
về đất nước trong chiều dài lịch sử và bề sâu văn hóa, tinh thần truyền thống:
-
Ngực lép bốn nghìn năm trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên tim hóa mặt trời
-
Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận
-
Ba mươi năm đời ta có Đảng
Không gian nghệ thuật trong thơ Tố Hữu là không gian
của những con đường cách mạng, là không gian của những mặt trận:
Rừng
cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng
chói sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến
phà dào dạt bến nước bình ca
(Ta đi tới)
Đường
ta rộng thênh thang tám thước
Đường
Bắc Sơn, Đình Cả Thái Nguyên
Đường
qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên
Đường
cách mạng dài theo kháng chiến
Đến
hôm nay đường xuôi về biển
Mới
tinh khôi màu đất đỏ tươi
Để thể hiện nội dung sử thi Tố Hữu sử dụng giọng điệu
với những chất khác nhau. Chất giọng quyền uy có khi vút cao lên thành giọng
hùng ca, thành lời truyền mệnh kêu gọi:
Đứng
lên đi xây dựng cuộc đời chung
Nắm
tay sắt quyết đồng tâm lật đổ
Cả
chế độ hung tàn gây thống khổ
Và
tị hiềm, và gian dối điêu vong
Đứng
lên đi hỡi tuổi trẻ xung phong
Sóng
cách mạng đang gầm rung thế giới
(Ý xuân)
Đi,
bạn ơi, đi! Sống đủ đầy
Sống
trào sinh lực bốc men say
Sống
tung sóng gió thanh cao mới
Sống
mạnh dù trong một phút giây
Chất giọng trang trọng hào hùng:
Biển
sóng trào lên thành đại hội
Muôn màu vũ trụ kết hoa đăng
Xôn xao mặt đất trăng là trăng
Chảy xiết ngân hà muôn sao vàng rực
Mặt trời đỏ huyền kỳ mọc lên ôi náo nức
Nhạc nhân gian cuồn cuộn bốc hồng trần
(Vui bất tuyệt)
Chất giọng phơi phới lạc quan, tin tưởng ở tương lai:
Ta hãy là đoàn chiến hạm ra đi
Hùng
dũng tiến đạp muôn đầu ngọn sóng
Tương
lai đó trước mặt ta biển rộng
Trên
đầu ta lồng lộng gió trời cao
Giọng điệu thơ Tố Hữu mang nhiều màu sắc
nhưng tất cả đều mang tính sử thi lãng mạn. Đó là giọng tâm tình ngọt ngào tha
thiết, giọng của tình thương mến. Đó là giọng thơ hùng tráng, có lúc thôi thúc
như mệnh lệnh khẩu hiệu xen lẫn với trầm tư suy ngẫm. Tất cả tạo nên những bài
ca trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc có sức mạnh động viên cổ vũ thức
tỉnh to lớn với mọi tầng lớp, thế hệ người Việt Nam.
Tóm lại, khuynh hướng sử thi là khuynh
hướng chủ đạo bao trùm giai đoạn văn học 45-75. Khuynh hướng này đã chi phối
các sáng tác thuộc đủ mọi thể loại. Khuynh hướng sử thi đã hình thành từ những
bước khởi đầu của nền văn học mới ngay sau cách mạng tháng Tám, nhưng từ những
năm cuối cuộc kháng chiến chống Pháp và nhất là trong thời kỳ chống Mỹ, khuynh
hướng ấy càng phát triển mạnh mẽ và bao trùm cả nền văn học. Nhờ có khuynh
hướng sử thi, nền văn học Việt Nam đã có những bản anh hùng ca hào sảng, có sức
sống mãnh liệt với thời gian, với mọi thế hệ người dân Việt. Tiêu biểu cho
những trường ca cách mạng đó là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng – Tố Hữu. Ông là
người đã tạo nên biên niên sử bằng thơ. Đó là sự thành công và niềm vinh dự mà
không phải bất kỳ nhà thơ nào cũng đạt được.
0 nhận xét:
Post a Comment