Phân tích rủi ro tín dụng của Ngân hàng


Trong quá trình phát triển của nền kinh tế tất yếu xuất hiện quan hệ tín

dụng giữa các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Sự luân chuyển dòng vốn

giữa một bên CẦN vốn và một bên CÓ vốn nhàn rỗi đã xuất hiện quan hệ tín

dụng.

 Ngân hàng là một trung gian tài chính có chức năng: Nhận tiền gửi của dân cư, tài chính

kinh tế, tài chính tín dụng… và cho vay lại các thành phần kinh tế với lãi suất thích hợp.

Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự thanh khoản trong nền kinh tế.

 Hiện nay, công tác quản trị rủi ro tín dụng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với

các ngân hàng nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung. Việc đánh giá, thẩm

định và quản lý tốt các khoản cho vay, các khoản dự định giải ngân sẽ hạn chế

những rủi ro tín dụng mà ngân hàng sẽ gặp phải, và tất yếu sẽ giảm bớt nợ xấu cho

Ngân hàng

 Tín dụng ngân hàng là quan hệ giữa một bên là: Ngân hàng (người cho vay) và

một bên là đối tượng đi vay (người dân, các thành phần trong nền kinh tế…) trên

nguyên tắc hoàn trả. Khi đáo hạn, khách hàng thanh toán cho ngân hàng cả gốc và

lãi thì quan hệ tín dụng là thành công. Tuy nhiên, đối với một khoản vay, trong

quá trình thực hiện, ngân hàng luôn phải trích lập một khoản dự phòng rủi ro khi


có tín hiệu rủi ro từ phía đối tượng đi vay. 
Ở đây ta sẽ đi sâu phân tích rủi ro tín dụng ở đối tượng là loại hình các doanh

nghiệp tài chính kinh tế.

Rủi ro tín dụng được nhìn nhận dưới 2 góc độ: Rủi ro khách quan và Rủi ro chủ

quan.

 1. Rủi ro khách quan

 Khi khách hàng nhận khoản giải ngân từ ngân hàng, họ sẽ dùng đồng vốn vào

mục đích kinh doanh như: Đầu tư vào dây chuyền sản xuất, đầu tư mua nguyên vật

liệu… Trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu sẽ phát sinh những rủi ro không

mong muốn mà đôi khi các doanh nghiệp không lường trước được như:

 - Rủi ro do nền kinh tế không ổn định.

- Rủi ro do các thủ tục pháp lý ở các địa phương còn rườm rà.

- Rủi ro do thị trường bị bóp méo bởi hàng hóa nhập lậu.
a. Rủi ro do nền kinh tế không ổn định 

 Khi tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh, bao giờ doanh nghiệp cũng tiến hành 

đánh giá tình hình thị trường cũng như đưa ra những dự báo phát triển thị trường,  

dự báo tăng trưởng doanh số. Nếu nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế quốc  

nội vận hành theo quỹ đạo đã dự báo thì doanh nghiệp sẽ thực hiện tốt các kế  

hoach đề ra. 

 Tuy nhiên, ta biết rằng: Nền kinh tế nước ta hiện giờ đang phụ thuộc nhiều vào 

các ngành sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp.  

Mà những ngành này lại phụ thuộc nhiều vào rủi ro thời tiết. 

 Khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng, tất yếu sẽ ảnh hưởng lớn đối với các  

doanh nghiệp xuất khẩu. Những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như dệt may,  

xuất khẩu hàng nông sản (xuất khẩu café, hạt điều, xuất khẩu cá basa,..) có nguy  

cơ không bán được khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng. Hoặc một sự thay đổi  

trong chính sách nhập khẩu (tăng thuế, giảm hạn ngạch, thay đổi tiêu chuẩn nhập  

khẩu) tại các nước sở tại ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu. 

b. Rủi ro do các thủ tục pháp lý 

 Sự chậm trễ, rườm rà trong các thủ tục cấp giấy phép, các thủ tục hải quan…  

nhiều lúc ảnh hưởng lớn đến cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Ta biết  

rằng, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp có tính thời điểm, nhưng nó sẽ không  

thể thực hiện nhanh chóng nếu không được “cởi trói” bởi các thủ tục pháp lý. Việc  

chậm trễ sẽ dẫn đến hệ quả của hàng loạt các hợp đồng kinh tế bị đình trệ, các dự  

án đầu tư “buộc lòng” phải “treo” trên giấy. Điều này gây tổn thất lớn về mặt kinh  

tế đối với các doanh nghiệp vay vốn. 
 Ta lấy một ví dụ đơn giản để minh họa cho rủi ro này: 

 Một doanh nghiệp X tiến hành thủ tục xuất khẩu một lô hàng hóa là hàng nông 

sản sang bên nước Y để thực hiện hợp đồng xuất khẩu đã ký với doanh nghiệp  

nước ngoài. Theo hợp đồng thì ngày 20 - 10 - 2009, lô hàng sẽ phải được chuyển  

tới tay doanh nghiệp nước ngoài. Ngày 18 - 10 - 2009, lô hàng hóa được vận  

chuyển tới cảng biển. Song do chậm trễ từ các thủ tục hải quan, lô hàng bị đình lại  

để tiến hành kiểm tra. Sự chậm trễ này khiến doanh nghiệp X chậm trễ trong việc  

thực hiện hợp đồng. Và khi đó, đối tác của họ có thể từ chối việc thực hiện hợp  

đồng và tiến hành phạt bồi thường hợp đồng. 

c. Rủi ro do hàng hóa nhập lậu tràn vào trong nước 

 Hàng hóa nhập lậu vào Việt Nam qua các con đường vùng biên từ lâu đã là nỗi  

“ám ảnh” của các doanh nghiệp nội địa. Hàng hóa nhập lậu có ưu điểm rẻ hơn về  

giá, loại hình phong phú đánh mạnh vào nhu cầu của đại bộ phận người tiêu dùng 

có thu nhập thấp. Các mặt hàng về đồ điện tử, kim khí, quần áo, mỹ phẩm là một  

minh chứng cho hiện tượng trên. 

 Các rủi ro cơ bản trên đã ảnh hưởng tới tình hình sản xuất kinh doanh của các  

doanh nghiệp. Một khi các đồng vốn mà doanh nghiệp đi vay đổ vào sản xuất kinh  

doanh mà không thu lại được, tất yếu sẽ đẩy doanh nghiệp tới việc mất dần khả  

năng trả nợ. Ngân hàng cũng đứng trước nguy cơ khó thu hồi lại khoản cho vay  

này. 

2. Rủi ro chủ quan 

 Rủi ro chủ quan đến từ cả hai phía là Ngân hàng và Doanh nghiệp đi vay: 
 a. Đối với Ngân hàng 

 Ngân hàng thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp: 

 Các ngành nghề của các doanh nghiệp đi vay là rất đa dạng: Đa phần các cán bộ  

tín dụng Ngân hàng không thể có đầy đủ thông tin cũng như hiểu biết về các  

ngành nghề lĩnh vực mà doanh nghiệp đang đầu tư kinh doanh. Hơn nữa, các cán  

bộ ngân hàng cũng rất khó thẩm định được số liệu tài chính do các Doanh nghiệp  

cung cấp có “đúng đắn” và chính xác tuyệt đối hay không. 

 Ta đã biết, hiện tại các doanh nghiệp, công tác kế toán chi phí chưa được thực  

hiện hóa chuyên nghiệp, ghi chép liên tục rõ ràng. Vì thế, khi các cán bộ ngân  

hàng sử dụng các báo cáo tài chính do doanh nghiệp cung cấp để phân tích trong  

công tác thẩm định sẽ đưa ra cái nhìn lệch lạc thiếu chuẩn xác.  

 Chính vì rất khó khăn trong việc đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, nên 

Ngân hàng thường có xu hướng ưu tiên các hồ sơ vay vốn có tài sản thế chấp, đảm  

bảo. Tuy nhiên khi dẫn đến việc xử lý thu hồi nợ cũng rất khó khăn. 
Theo các văn bản hướng dẫn cưỡng chế thu hồi nợ đều ghi rõ: "Trong trường hợp  

doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán, Ngân hàng có quyền xử lý tài 

sản nợ vay". Trên thực tê, Ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là một cơ  

quan quyền lực Nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng thực  

hiện nghĩa vụ trả nợ. Hơn nữa các thủ tục pháp lý kiện ra tòa án để thực hiện xử lý  

tài sản thế chấp cũng rất rườm rà, gây mất chi phí đối với Ngân hàng. 

 Trình độ của các cán bộ tín dụng đôi khi còn khá hạn chế. Ngoài ra còn có nhiều  

cán bộ tín dụng vì những lợi ích vật chất sẵn sàng tiếp tay cho các doanh nghiệp  

làm giả hồ sơ giấy tờ để xin vay vốn. Chính điều này đã dẫn đến những rủi ro rất  

lớn ngay từ khâu giải ngân. Hơn nữa các doanh nghiệp này phần nhiều có tình 

hình tài chính không minh bạch, không đáp ứng được những điều kiện giải ngân từ  

phía ngân hàng đề ra. 

b. Đối với doanh nghiệp 

 Nhiều doanh nghiệp không đánh giá hết được những rủi ro khi sử dụng đồng vốn,  

đánh giá chi phí vốn cũng như khả năng sinh lợi của đồng vốn. Đa phần các doanh  

nghiệp khi dùng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đầu tư vào mở  

rộng quy mô sản xuất, đầu tư vào cơ sở vật chất mà cái quan trọng nhất là đầu tư  

phát triển kỹ năng của lực lượng nhân lực của công ty. Khi doanh nghiệp mở rộng  

quy mô mà tư duy quản lý không thay đổi, trình độ của đội ngũ quản lý không 

được đảm bảo thì doanh nghiệp tất yếu phải đối mặt với những rủi ro về khả năng  

quản lý sản xuất, dẫn đến nhiều sai lầm trong quá trình ra quyết định quản lý kinh  

doanh. 

 Nhiều doanh nghiệp sử dụng không đúng mục đích đăng ký ban đầu trong hồ sơ  

xin vay vốn. Đồng vốn không sử dụng đúng mục đích tất yếu sẽ khó khăn trong  

việc kiểm soát dòng vốn cũng như kiểm soát rủi ro của đồng vốn. 
 Ví dụ: Một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khi vay vốn về đã sử dụng một  

phần vốn đi vay để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Khi thị trường chứng  

khoán tụt dốc, tất yếu sẽ làm “thua lỗ” phần vốn đã rót vào. Hệ quả là doanh 

nghiệp sẽ không thu được lãi từ sự đầu tư, lãi từ lĩnh vực sản xuất không đủ bù. 

 Công tác quản lý rủi ro tín dụng là rất quan trọng đối với ngân hàng. Để đảm bảo  

cho công tác này được thực hiện tốt, ngân hàng cần có những bước thực hiện cụ  

thể: 

Tính toán xác định rủi ro 

 + Thẩm định đánh giá rủi ro đối với từng khoản giải ngân: Tình hình tài chính của  

đối tượng xin vay vốn, phân tích đặc trưng ngành của doanh nghiệp vay, phân tích  

khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp so với các đối  

thủ cùng loại trên thị trường. Phân tích các rủi ro hệ thống, rủi ro  tình hình kinh 

tế... 

+ Đánh giá năng lực lãnh đạo của các cán bộ doanh nghiệp. 

 Lượng hóa rủi ro 

 Sử dụng các công cụ phân tích, các chỉ báo phân tích để tính toán, đo lường  

những rủi ro được thể hiện qua các con số. 

 Quản lý, giám sát 

 + Quản lý và giám sát việc doanh nghiệp sử dụng vốn. Nếu có dấu hiệu doanh  

nghiệp sử dụng vốn sai mục đích: Ngưng việc giải ngân, đề nghị doanh nghiệp  

giải trình và yêu cầu thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng giải ngân. 
 Đưa ra các phương pháp giải quyết rủi ro 

 + Không giải ngân đối với các hợp đồng không tuân thủ các điều kiện tài chính 

+ Không chấp nhận các hợp đồng có độ rủi ro cao (tài sản thế chấp không đảm  

bảo, lĩnh vực đầu tư không rõ ràng…) 


Share on Google Plus

About VuXuan

Nếu luận văn trên là tài liệu bạn đang cần vui lòng gửi email tới:hitmancutead@gmail.com hoặc comment bên dưới bài đăng để nhận ngay tài liệu độc và chuẩn giá 20K VND.Thông tin liên hệ chi tiết tại đây
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Post a Comment